Books

Books
The greatest pleasure of writing is not what's it about, but the inner music the words make - Truman Capote

Monday, March 17, 2025

 QUÁN ÔNG ĐƯỢC


Con đường nhựa chấm dứt chia thành hai hẻm nhỏ tẽ ra hình chữ Y. Lối rộng xe hơi chạy được lúc nãy, giờ chỉ còn vừa một chiếc xích lô đạp. Bước vào hẻm, các hiên nhà vươn ra như đua nhau khuỳnh tay lên trong một chiến dịch lấn đất quyết liệt. Ngước nhìn lên, các bao lơn của tầng thứ hai - đúng, đấy là những căn nhà lầu, ọp ẹp nhưng vẫn là nhà lầu - như gần dính lại nhau. Áo quần phơi san sát, chỉ còn chừa những rẻo hẹp không khí qua đấy nhìn được một chút trời xanh. Áo thun, áo lụa, quần dài, quần ngắn treo đầy, có cái còn đang nhễu nước, cả những quần lót phụ nữ mà các bà lớn tuổi cứ phải luôn liếc mắt lên và đi ne né bên dưới vì sợ xúi quẩy. 

Quán ông Được nằm khoảng giữa xóm. Đấy là một căn nhà nhỏ, mặt tiền có một cửa sổ rộng bên cạnh cửa ra vào. Cửa sổ không cánh nhưng được đóng mở bằng những tấm ván tháo ra được. Mỗi sáng, ông Được gỡ những tấm ván ra, phô bày hàng kệ ông tự đóng lấy theo hình tam cấp, trên đặt nhiều loại hàng tạp hoá, từ bánh kẹo, thuốc lá, đến xì dầu, đường, muối, đèn cầy, diêm quẹt, dầu hôi, gần như đủ những thứ lỉnh kỉnh mà ai đó trong xóm sẽ một lúc nào thấy thiếu và cần mua ngay, cho dù mắc hơn ngoài chợ một ít, nhưng tiện và khỏi mất công đi xa. 

Thỉnh thoảng, ông Được lại bổ sung hàng hoá của mình bằng một chuyến xe đạp thồ. Không biết ông lấy hàng ở đâu, nhưng khi về, chiếc xe đạp của ông chất đầy những thùng cạc tông, những giỏ, những túi, đặt trên yên xe và treo hai bên bánh xe sau, cả trên tay lái. Ông hì hục đẩy chiếc xe cồng kềnh qua con hẻm gồ ghề ngoắt ngoéo, đến được nhà thì gần như mất hết cả sức lực, phải ngồi thở phì phò hồi lâu, uống một ly cối nước trà nguội pha từ sáng đã ra màu nâu đen, từng ngụm lớn, ngưng lại một chút giữa những ngụm như muốn để cho chất giải nhiệt xoàng xĩnh ấy có thêm thời gian làm mát đi phần nào thân thể. Giá chi có được chút đá lạnh - ông thầm nhủ - nhưng thôi, vậy cũng được, Được à. Mà để làm hơi thuốc rê cái đã rồi hãng dỡ đồ. Ông ngồi bệt xuống bậc cửa, duỗi chân, vê giấy vấn điếu thuốc kèn. 
Hút xong, ông cởi chiếc quần dài nhà binh có nhiều túi, rồi, mặc mỗi cái quần xà lõn ống rộng và áo thun ba lỗ, cả hai đều một màu trắng bẩn ngã vàng từ lâu, ông từ từ tháo bao bì, xếp các món hàng mới mua lên kệ theo loại. Các bao ny lông, hộp đựng, giấy gói, dây thun, dây buộc, ông bỏ qua một bên để lát nữa lựa lại, hoặc để dùng tiếp, hoặc bán ve chai hoặc vất đi. 

Các món hàng đã xếp lên kệ ưỡn mình trên giá gỗ cũ kỹ như đang vẫy gọi, này tôi đây. Các bánh bích-qui đã chuyển từ các bao ny lông qua hai hũ thuỷ tinh cao to, khoe ánh vàng của bột nướng làm đỏm bằng những hạt đường cát trắng. Các bao thuốc lá đã xếp vào một hộp kính vuông hai ngăn, thuốc mắc tiền viền chỉ vàng ngự ở trên và thứ rẻ xanh đỏ nằm phía dưới, sẵn sàng được bán lẻ từng điếu. Các trái ổi, trái cóc xếp vào hai rổ vun lên như hai kim tự tháp tý hon. Và, mớ củi ngo mồi bếp lửa đã được chẻ ra từ bó to ngoài chợ thành những nắm que nhỏ bằng chiếc đũa, cột dây thun và xếp hàng dài dựng đứng như bầy lính gác dưới chân tường. Ông Được ngắm nhìn cửa hàng của mình với vẻ hài lòng rồi gục gặc đầu bước vào trong.

Ông Được sống một mình không vợ, không con, lưng hơi gù, cái đầu hói lơ thơ vài cọng tóc trắng luôn cong về phía trước giống như quá nặng với bắp thịt cổ, lắc lư dưới mỗi bước đi cho ông một dáng vẻ chim kên kên. Ông ít nói, chỉ mở miệng vừa đủ cho công việc buôn bán. Bù lại, ông rất thích cải lương và thỉnh thoảng lại ư ử ngâm lên câu hát ưa thích của mình, đầu gật gù theo những tiếng gõ song lang tưởng tượng:
Con - giã biệt - thiền môn - xuống thôn,
Nào - dám quên - ơn thầy,
Đoạn hát còn hai câu sau nữa, nhưng giọng ông luôn chỉ to ban đầu lúc mới cất lên rồi nhỏ đi, nên nghe không mấy rõ và lũ con nít trong xóm thường ló đầu vào hát nhái theo một câu phịa tầm bậy,  chọc ghẹo, nhưng rập theo rất đúng vần điệu:
Thu lang - ơi hỡi - thu lang
Cái đầu ông Tây…
Lần nào cũng thế, ông quay lại chửi um:
    - Mả cha tụi bây! Tao đập cái chết bây giờ…
Dĩ nhiên là lũ trẻ đã nhanh chân chạy mất hết cả, chỉ còn mình ông bực dọc đứng lẩm bẩm những gì không ra tiếng. 

Buổi chiều, ông ráp lại những tấm ván trên cửa sổ để đóng tiệm và chốt bên trong bằng một thanh gỗ dài. Ông vào bếp phía sau nấu bữa cơm đơn giản, đôi khi chỉ là hâm lại thức ăn ngày hôm trước cất trong gác-măng-giê. Qua khung cửa ra vào, người đi ngang thấy một hình bóng đơn côi ngồi ăn trước màn hình ti vi nhỏ sau kệ hàng. Mặt ông nhờn nhợt phản chiếu ánh xanh xao từ màn hình, lúc sáng lúc tối và miệng ông nhai nhóp nhép, máy móc như người rô-bô, đôi lúc cười thành tiếng ở một tuồng hề, một trong những tiếng cười hiếm hoi nghe được ở ông, một âm thanh, may mắn thay, lôi kéo được hình ảnh hơi chút ma quái ấy về thực tại bình thường. 

Thế mà  mà con người cô đơn ít nói ấy đã thổ lộ tâm tình cho bà Sáu cạo gió đầu hẻm. Bà này chuyên nghề cạo gió kiêm giác hơi lưu động và nổi tiếng trong xóm. Mỗi khi khó ở trong người, ông Được hay vời bà đến. Bà Sáu rất khéo đưa đẩy câu chuyện và ông Được có lúc đã kể chuyện ngày trẻ của mình. 

Thời thanh niên ông đã mê cải lương. Bài hát nào ông cũng thuộc và mơ ước một ngày trở thành kép hát tài ba. Thế nhưng tập mãi ông vẫn chưa hát hay được và hơi không đủ dài dể xuống câu. Một hôm có gánh hát ghé làng, ở lại diễn suốt tuần. Cô đào hát chính đẹp lộng lẫy dưới xiêm y, trang sức và ánh đèn sân khấu. Ông đâm ra mê mẩn, ngày nào cũng mua vé đến xem. Khi gánh hát sắp rời làng, ông đánh liều đến gặp bầu gánh xin theo đoàn, làm gì cũng được. Bầu gánh nghe ông hát thử, lắc đầu, nhưng ông năn nỉ quá nên cho theo phụ việc dọn dẹp vì cũng cần người. Ông chăm chỉ làm việc, ngày ngày cố gắng nghe và tập hát theo anh kép chính. Dần dà ông hát cũng đỡ tệ hơn, nhưng bầu gánh chưa bao giờ cho ông hát trình diễn. Đỉnh cao sự nghiệp sân khấu của ông là ngày được cho đóng vai lính hầu, cũng trang điểm phấn hoa, cũng mặc quân phục, hia mũ hẳn hòi, và, dù chỉ chạy tới lui trên sân khấu, miệng dạ vang tuân lệnh, ông đã cảm thấy hãnh diện rất nhiều. Nhưng dần dà, gánh hát mất vẻ thu hút của nó, và cô đào chính, khi trút bỏ xiêm y và son phấn lộng lẫy của ánh đèn sân khấu, sao trông lại quá tầm thường. Ông đâm chán nản và một ngày mùa thu quyết định bỏ gánh ra đi. Ông không về làng - nói sao với họ bây giờ - mà tìm lên thành phố kiếm sống. 

Âm vang cuộc đời nghệ sĩ của ông nay chỉ còn trong những câu vọng cổ ưa thích, thỉnh thoảng ông lại xướng lên ngân nga, hay hoặc dở tùy người nghe, nhưng, đối với ông là cả một êm ả hạnh phúc nhỏ nhoi. Một trong những hạnh phúc nhỏ nhoi góp phần vào cuộc sống vô vị của ông, bán một quán xép nhỏ nhoi trong một hẻm chật hẹp xóm lao động, tỉ mỉ bày biện các món hàng lắt nhắt trên kệ gỗ tạp tự đóng, cười lên nho nhỏ ở những vở tuồng hề ti vi trong bữa cơm đơn độc, và miễn cưỡng giao tiếp với khách hàng khi cần.

Một đứa con gái đen đủi mẹ sai đi mua hàng rụt rè hỏi:
    - Cho năm đồng nước màu. 
    - Nè, coi chừng đổ. 
Chàng thanh niên chạy xe ôm chỉ tay hét trong tiếng máy nổ dòn:
    - Cho hai điếu ba số. 
    - Còn ba điếu lấy luôn chú Hai. 
    - Ô kê, làm luôn. Tiền đây ông. Khỏi thối. 

Ông Được hài lòng, quay trở lại cẩn thận xắp mớ ổi xá lị mới mua vào rổ. Mẻ trái cây này ông may mắn mua được ngoài chợ sáng hôm nay, giá rẻ nhưng xanh đẹp và to tròn không như những trái sứt sẹo, méo mó thường thấy trong ngân sách của ông.  Hì hục một hồi, ông hể hả nhìn tháp trái cây xanh mát, cân xứng nằm trên kệ. Tuyệt quá! Đâu thua gì chợ Bến Thành. Ông khoái chí cất cao giọng:
    Con - giã biệt - thiền môn - xuống thôn…
Chưa kịp lấy hơi cho câu tiếp thì một thằng bé đầu húi cua đi ngang chõ đầu vào hét to:
    Thu lang - ơi hỡi - thu lang…
Ông Được xoay người giận dữ. Trong cùng động tác, cánh tay ông quẹt vào mép rổ ổi xá lị. Những trái ổi to tròn đổ ào xuống sàn nhà. Ông hốt hoảng:
    - Mồ tổ nó! 
Thằng bé bên ngoài cửa sổ cười rú lên: 
    - Ha ha ha! Cái đầu ông Tây… nhào rồi !
Ông ngồi thụp xuống, với tay ráng chụp lại những quả tròn đang tìm đường tẩu thoát.

Chúng lăn lông lốc như những cái đầu ông Tây…

DND

No comments:

Post a Comment