CƠM
HÀNG CHÁO CHỢ
Thời còn trung học, tôi ở nhà, ăn cơm của mẹ,
yêu cầu món gì mẹ cũng nấu ngay, trúng gu, ngon vô cùng. Khi vào đại học ở Sài Gòn, cái sự ăn uống của
tôi bắt đầu bị xáo trộn và càng ngày càng trở nên rắc rối, nhưng lý thú và đa
dạng hơn nhiều.
Những tháng đầu tiên, tôi ăn ở tạm tại nhà bà
cô. Chồng của cô là một người ngày xưa
đi học bên tây, ăn bơ sữa có lẽ hơi nhiều nên nay không chịu được mùi nước
mắm. Mỗi bữa ăn, chú ngồi tít tận đầu
bàn, tay thủ một chai xì dầu để hổ trợ những món cần thêm độ mặn. Cơm nhà cô do chị người làm nấu, không gì
ngon lắm, nhưng ai cũng có vẻ hài lòng, nên tôi cũng hài lòng theo. Mỗi buổi tối thứ bảy, cô chú đi ăn
ngoài. Chị người làm cũng có chương
trình đi chơi với bồ, nên món ăn thường lệ cuối tuần của tôi là tô mì ăn liền
hiệu hai con cua xanh có bỏ phất phơ vài cọng hành ngò cho đỡ trơ trẽn.
Ở nhà cô chú được một thời gian, tôi ra trọ
nơi khu Hàng Xanh. Bà chủ trọ là người
quen của ba tôi nên cho ở với giá đặc biệt.
Nhà bà ấy ngăn ra nhiều phòng cho mướn bằng những tấm vách ván lửng
không đủ cách âm, từng tiếng gãi sột soạt của người bên kia đều nghe rõ mồn
một. Tuy vậy phòng trọ ấy được cái riêng
tư kín đáo đằng sau cánh cửa vào có chốt khoá.
Người ở trọ cũng có cảm giác làm chủ được cái giang sơn của mình, chỉ
cần luôn nhớ là đừng vô tình để buột ra những âm thanh “ẩn kín” mình không muốn
người ngoài nghe được.
Bà chủ trọ chỉ tôi ra ăn cơm tháng của dì Năm
đầu ngõ. Quán dì Năm phần chính bán cơm
bữa cho những người bình dân đi làm trong khu vực, phần cơm tháng chỉ là phụ
thêm. Nhưng chính vì thế, cái menu cơm tháng của dì rất là phong
phú. Mỗi bữa, tôi được dọn một món canh
và một món mặn, nóng sốt thật ngon. Cơm
trắng ăn thả giàn và trà đá uống thoải mái.
Tôi thấy hạnh phúc tràn trề vì tìm được một chỗ ăn ngon, vừa túi tiền mà
được cả bà chủ quán thật dễ thương.
Từ bé đến lớn, tôi rất kén ăn nên chỉ ăn
những món mình thích và sợ không dám thử những món lạ. Mẹ thương nên đã hoài hoài nấu ăn theo yêu
cầu và đã vô tình bảo bọc tôi trong cái thực đơn giới hạn ấy. Ngày xưa, tôi chỉ ăn thịt kho bằng thịt đùi
thật nạc, không dính một tí mỡ nào. Bây
giờ tôi khám phá ra rằng miếng thịt ba chỉ dì Năm kho lẫn với khứa cá thu, nó
ngon và béo vô cùng. Lúc còn ở nhà, nhìn
thấy trái khổ qua là tôi rùn vai nhăn mặt, tưởng tượng chỉ có khùng mới đem nấu
canh cái trái gì đắng nghen đắng nghét như thế.
Dì Năm dỗ tôi ăn tô canh khổ qua nhồi thịt của dì, sao mà không đắng tí
nào mà lại thơm ngon cái mùi đặc biệt tôi sẽ nhớ suốt đời. Tôi không đến nỗi sợ nước mắm như ông chú đi
học bên tây về, nhưng trước kia, tôi không bao giờ chấm thức ăn vào nước mắm
sống. Giờ đây, tôi lại thấy rằng miếng
cá chiên chấm vào tí nước mắm nguyên chất lại tăng thêm phần ngon gấp bội phần.
Tôi mê lắm những miếng sườn heo dì Năm tay
quạt tay nướng trên bếp than hồng, mỡ xèo xèo nhễu xuống thành làn khói trắng
quyện lên thơm ngát mùi thịt ướp hành xả.
Tôi thích tô canh chua cá lóc đậm đà, thật ngọt mà thật chua, đỏ những miếng
cà, vàng những mẩu khóm, xanh những dọc bạc hà, xanh nữa những lát đậu bắp,
ngon ngọt không cùng, ăn vào nhớ mãi không quên. Tôi đâm ghiền món mắm chưng có tráng lớp lòng
đỏ trứng vịt trên mặt, ăn với rau sống cùng dưa leo khiến bát cơm trắng trở nên
ngon tuyệt, kích thích vị giác mười phần hơn món mắm chưng giả hiệu không có
mùi mắm mà ngày xưa tôi mê của mẹ.
Sau chỉ một thời gian ngắn thôi, cái ăn cái
uống của tôi đã trở nên phong phú hơn rất nhiều. Cơm của mẹ vẫn ngon những lần tôi về thăm
nhà. Nhưng cơm dì Năm ngon khác. Nếu cơm của mẹ ví như nhạc cổ điển êm dịu thì
cơm dì Năm ví như nhạc rock, nó kích
động, nồng nàn, ào ạt tấn công khứu giác người ăn, mau chóng đưa đến sự khoái
khẩu. Ngày nào tôi ăn cơm cũng ngon
miệng, có lẽ tại tôi học nhiều nên bụng đói, cũng có lẽ tại bầu không khí quán
cơm làm cho dễ ăn ngon, nhưng chắc chắn là cũng nhờ ở cái tài nấu ăn của dì
Năm. Xin cám ơn dì đã dẫn dắt tôi vào
mùi vị đậm đà của những món ăn quê hương, những hương vị nồng nàn mà tôi sẽ da
diết suốt đời.
Thế nhưng cái quán cơm hạnh phúc ấy đã không
tồn tại được lâu. Đùng một cái, dì Năm tuyên bố đóng cửa quán về quê. Hình như mẹ dì bệnh nặng cần phải chăm sóc
hàng ngày. Những người ăn cơm tháng như
tôi hệt như bầy chim vỡ tổ, dáo dác bay đi tìm chỗ ăn khác. Sau những ngày ăn đỡ những ổ bánh mì thịt và
những tô hủ tíu, thằng Phát cùng ăn cơm tháng ở dì Năm chỉ tôi ra tiệm cơm tàu
ở góc đường Phan Thanh Giản:
-
Ở
đó hơi mắc nhưng ông kêu một món canh thôi, ăn với cơm cũng no.
Tôi nghe lời nó vào tiệm kêu một tô canh tần
ô nấu với tôm. Người phổ ky nhướng mắt
đứng chờ tôi kêu món kế tiếp. Tôi ngượng
ngùng:
-
À,
vậy thôi! Cho ly trà đá!
Hắn lầm lì quay vào trong rồi một chốc bưng
ra một tô canh và cơm trắng. Tô canh
ngon nhưng hơi ít, có được hai con tôm bóc nõn.
Tôi nhâm nhi hai chú tôm cùng chén xì dầu, ăn hết những cọng tần ô và
chan nước súp nuốt cũng được hai chén cơm.
Tôi không trở lại tiệm ăn tàu đó.
Không lẽ lần tới lại kêu thêm một món canh khác? Thằng Phát chỉ bậy hết sức!
Vài ngày sau, tôi tình cờ khám phá ra được
một quán ăn rất kỳ lạ. Quán không bảng
hiệu nằm giữa một con đường đã bị chận xe không lưu thông được. Ngôi nhà hình vuông vức gồm hai tầng đóng
bằng những tấm gỗ không sơn mà mưa nắng đã làm cho bạc phếch. Tầng dưới quây vách tôn ở hai bên, còn lại
trống hoang hoác dùng làm nhà bếp. Tầng
trên là chỗ khách ngồi ăn, chỉ đóng ván lên khoảng một mét, phía trên để hở làm
cửa sổ cho thoáng. Tôi ghé mắt nhìn
những món ăn thấy cũng có vẻ ngon nên bước vào hỏi chị chủ quán:
-
Ở
đây bán cơm làm sao chị?
-
À,
chú kêu đồ ăn xong lên lầu, con nhỏ nó đem lên sau.
Tôi kêu một dĩa thịt kho và một tô canh chua,
xong còn chần chừ chưa biết trả tiền làm sao thì người khách đàng sau đã đẩy
vội tôi lên cầu thang:
-
Lên,
lên đi, ăn xong chút mới trả tiền!
Phòng ăn kê nhiều dãy bàn công cộng đầy những
người. Tôi bắt chước người khách ngồi
đại vào một bàn còn chỗ trống.
-
Mới
đến lần đầu hả? - người khách hỏi tôi trong khi chờ đồ ăn.
-
Dạ,
chỗ này coi cũng ngộ.
Người khách móc trong túi áo ra một đôi đũa
và một cái muỗng, miệng giải thích:
-
Ở
đây ăn được lắm, có điều chén đũa hơi dơ, tui mang đồ riêng của mình chắc ăn
hơn.
Tôi còn đang hoang mang thì một cô bé mập ú
bưng một chiếc mâm khổng lồ đựng đầy những tô dĩa thức ăn bước lên lầu:
-
Cá
kho, cải xào của ai đây? - miệng cô hét ong óng - Thịt kho, canh chua của ai
đây?
Tôi vội nhận phần của mình. Cô bé đặt các thức ăn và tô cơm trước mặt
tôi:
-
Thịt
kho canh chua, trăm rưởi!
Người khách trước mặt dặn tôi:
-
Nhớ
đó, tí nữa xuống dưới trả tiền.
Cầm vào cái chén và đôi đũa, tôi thấy chúng
trơn trơn như rửa chưa sạch. Tôi hơi ớn
nhưng lỡ rồi nên cũng ăn đại, tự nhủ chắc cũng không sao đâu.
Tôi trở lại quán đó nhiều lần, rủ cả thằng
Phát và những người ăn cơm tháng dì Năm ngày xưa. Ngoài cái vụ hơi thiếu vệ sinh, quán ăn rất
ngon mà giá cả rất phải chăng. Tôi thấy
chị chủ quán có phương pháp tính tiền rất văn minh, dựa vào tinh thần tự giác
của mọi người. Khách ăn xong xuống trả
tiền, có nói cái giá cô bé mập ú cho, hoặc nói ít đi một tí, thì chị cũng chẳng
biết được. Chị vẫn nhận tiền và cười
tươi rói. Tôi nghĩ rất ít người ăn gian
vì thấy chị làm ăn coi cũng phát tài lắm.
Tôi đặt tên cái quán đó là “quán rung rinh” vì mỗi lần có ai bước đi là
cả sàn quán rung rinh rúng động. Tôi nói
đùa với thằng Phát có ngày xui xẻo mình đang ngồi ăn cái quán nó sập xuống chết
hết cả lũ.
Năm học tới, tôi dọn đến ở cùng thằng bạn tại
một căn phòng cho thuê gần trường. Thế
là giã từ quán rung rinh. Lần giã từ đó
cũng là lần vĩnh biệt, vì nhiều tháng sau, có dịp đi ngang qua con đường cũ,
ngôi quán đã biến mất tiêu, chỉ còn trơ dấu vết đen đúa trên mặt đường của cái
bếp ngày xưa. Cái quán ấy đông khách thế
mà sao lại đóng cửa đột ngột. Tôi thầm
cầu mong chẳng phải vì quán đã sập dưới sức nặng của khách ăn.
Ở chỗ trọ mới, tôi và thằng bạn ăn cơm tháng
của một bà hàng cơm gần đó. Mỗi bữa
chúng tôi được dọn một phần cơm dĩa và một chén canh. Nếu còn đói thì có thể kêu thêm một chén cơm
trắng khỏi trả thêm tiền. Chỗ ấy ăn cũng
tạm được, không ngon bằng cơm dì Năm nhưng tiện vì khỏi phải đi đâu xa. Chúng tôi chỉ ăn cơm tháng những ngày đi học
trong tuần. Cuối tuần, thằng bạn tôi
chạy về nhà nó ở Phú Lâm. Tôi đi ăn phở,
hoặc ăn bậy bạ cái gì đó, hoặc đến ăn cơm ké ở nhà những thằng bạn có gia đình
trong thành phố.
Những tuần thằng bạn không về nhà, nó hay rủ
tôi đi vào Chợ Lớn ăn tối. Khu ăn uống
lộ thiên ban đêm thật nhộn nhịp. Khách
ăn ngồi quây quanh những xe bán hàng hoặc lan ra những bộ bàn ghế kê san sát
gần đó. Những hàng ăn nóng sắp xếp chung
với nhau, nào mì, nào hủ tíu, nào bột chiên, nào cháo lòng...và rất nhiều những
món khác không sao kể cho hết. Những
hàng ăn ngọt lại chiếm cứ một khu khác.
Ở đấy người ta có thể kêu những ly sâm bổ lượng ngọt ngào, những chén
chè thơm phưng phức, những ly nước mía mát lạnh lẫn mùi cam quít, những ly
sương sâm, sương xáo dòn sừn sựt ngát hương xi rô dầu chuối dưới lớp đá bào
trắng tươi...
Tôi thích tô mì hoành thánh có cái bánh tôm
chiên dòn trên mặt, điểm tô vài cọng hẹ và dăm miếng tắp mỡ. Đút một gắp mì vào miệng kèm miếng thịt xá
xíu, húp thêm một miếng nước súp nóng hổi thật là ngon hết chỗ chê. Tôi cũng thích những viên thịt bò viên dọn
trong chén súp nhỏ tí, xiên ra chấm vào tương đen đỏ, ăn đánh vèo hết liền,
phải kêu thêm vài ba chén nữa ăn mới đã miệng.
Hình như lạc vào khu hàng ăn ấy thì cái gì cũng thích được, chỉ sợ không
có bụng để mà ăn thôi. Thức ăn ngon lại
càng tăng thêm phần ngon nhờ bầu không khí náo nhiệt, nhờ có chỗ ngồi ăn ngon,
nhờ có bạn cùng ăn ngon, hệt như lời ông Tản Đà. Thật là lý thú khi ngồi chờ thức ăn mà có
người thân để cùng tán dóc, hoặc cả khi ngồi một mình, mà ngắm nhìn anh chàng
bán sâm bổ lượng múa may ném những cái muỗng vào ly đá bào như người hát xiệc.
Những ngày tháng êm đềm đó chấm dứt sau ngày
“giải phóng” miền nam. Bà hàng cơm không
nhận nấu cơm tháng nữa. Cái nguồn tài
chính của tôi, gồm có lương đi dạy kèm tại tư gia cộng với phụ cấp gia đình
cho, đột ngột vơi đi. Tôi một lần nữa
phải chạy vòng vòng tìm chỗ ăn giá phải chăng.
Cái giá phải chăng ấy dần dà tụt xuống cấp thành giá rẻ. Càng rẻ càng tốt. Ai đó chỉ tôi cái quán cơm xã hội. Trước đây, tôi chỉ mang máng biết là quán cơm
xã hội bán cơm cho người nghèo. Bây giờ
tôi là người nghèo. Tôi vào ăn thử. Khách ăn gồm những phu xích lô, những người
lao động, những người có vẻ như công chức ngày xưa bây giờ không biết làm việc
gì, có vài khuôn mặt trẻ măng, chắc cũng sinh viên như tôi. Món ăn ngày hôm ấy là canh rau dền nấu với mỡ
cộng hai con tôm rang mặn. Cơm thì giống
như cơm nguội rưới nước vào hâm lại nhiều lần.
Tôi thấy cơm xã hội không thể là giải pháp lâu dài cho tôi được.
Cái câu lạc bộ trong trường tôi đến lúc ấy
vẫn còn hoạt động. Chính yếu là bán trà
đá, cà phê và thuốc lá cho sinh viên.
Chị bán hàng cũng có cơm dĩa nhưng ít ai ăn vì mắc tiền. Một lần ớn cơm xã hội, tôi kêu thử cơm của
chị. Dĩa cơm ra-gu được khoảng hai chén
cơm, ở giữa bày một miếng sườn non tí tẹo bằng đầu ngón tay cái và ba khoanh cà
rốt, tất cả được rưới lên một muỗng nước sốt loang lỗ như vết sơn đỏ chính giữa
vun cơm trắng. Ra-gu ngon nhưng quá
ít. Tôi chan xì dầu ăn hết dĩa cơm...
Thời buổi ngày càng khó khăn. Những sinh viên bắt đầu cùng nhau nấu cơm tập
thể. Mỗi người đóng vào một phần gạo do
một anh quản lý, cứ mỗi bữa đong ra nấu chung.
Phần thức ăn thì mỗi người tự túc lấy.
Có người đem cá khô, muối mè, thịt chà bông, lạp xưởng... Có người thiếu hậu phương giúp đỡ thì ăn cơm
với chuối và xì dầu. Tôi có ăn thử chuối
và xì dầu. Đại khái thì cơm ngon và dễ
nuốt hơn là... chỉ ăn với xì dầu không.
Số lượng người nấu cơm chung cũng nhiều nên
nồi cơm rất lớn. Để cho công bằng, sinh viên nào cũng được, hay đúng ra là bị,
phân công nấu cơm. Nấu một nồi cơm lớn
cho chín đều rất khó. Còn khó nữa là
phải nấu bằng củi. Đã nhiều lần nồi cơm
khổng lồ ấy đã bị trên sống, dưới khê, tứ bề nhão nhẹt. Anh Tư quản lý có kinh nghiệm nấu cơm nhất
trong bọn nên đã hoài hoài phải sửa những nồi cơm hư cho thành ăn được. Chúng tôi gọi anh là “thầy sửa” hoặc thân mật
hơn là thầy Tư. Tôi học được nghề nấu
cơm bếp củi của thầy sửa. Tôi nấu cơm
giỏi hơn ngày xưa đi cắm trại hướng đạo rất nhiều.
Nhóm bạn chúng tôi có sáng kiến hùn tiền mỗi
ngày để đi chợ nấu ăn chung. Mỗi người
góp vào một tí thì cũng đủ để mua một ít cá tôm, một ít rau củ, đem về nấu
thành một món gì đấy mà chỉ với tiền của một người thì không thể nào sắm được. Thằng Thành là con nhà giàu, nhà có xưởng dệt
ở Ngã Tư Bẩy Hiền, nhưng không biết sao lại rất thích đi nấu ăn chung với lũ
sinh viên nghèo chúng tôi. Chắc là công
tử ước mơ cuộc sống bụi đời. Nó thường
đứng ra gom tiền và dành phần đi chợ.
Tôi sợ trả giá với mấy bà hàng ngoài chợ, nhưng nó mặc cả tự nhiên như
một nội trợ điển hình. Tôi hay đi theo
nó luồn khắp chợ để tìm nguyên liệu cho những món ăn mà tôi thường là người đề
xướng cho cả nhóm. Tôi nặn óc xem phải
mua những gì đủ cho bốn năm thằng ăn bằng cái ngân khoản nhỏ nhoi. Cô hàng tôm, má đỏ môi hồng, bông tai vàng
chóe lủng lẳng, lần nào thấy chúng tôi cũng ngọt sớt réo mời:
-
Tôm
tươi ngon lắm, mấy anh mua dùm em đi!
Chữ “em” của cô luôn kéo dài ra ở phần đuôi,
nghe thật mềm dẻo, êm ái, quyến rũ. Tôi
cười duyên khan với cô vì tiền tôi chưa chắc mua được một nửa con tôm càng to
tướng ấy. Thằng Thành huých tôi:
-
Em
coi bộ khoái ông lắm đó! Cua nó đi ăn
tôm đã đời!
-
Giỡn
hoài mày! Cua với tôm gì! Mày muốn thì vô đi, sao lại xúi tao! – tôi trợn
mắt nhìn nó.
Thành cười hì hì kéo tôi rảo bước qua hàng
người đẹp tôm càng để đi tìm những thức ăn trong tầm tay với hơn.
Thức
ăn trong tầm tay với là những quả cà dái dê, mua về nướng trên bếp củi, cạo vỏ
cháy đen, dầm vào dĩa nước mắm tỏi ớt.
Là chú cá nhỏ bé xíu nấu xong tan
mất tiêu không còn tìm thấy được nữa trong nồi canh chua toàn rau với giá. Là những miếng bí đỏ xắt vuông um mặn với
hành và tắp mỡ. Là những món ăn nhà
nghèo tôi điều chế lại từ những món ăn tôi thích ngày xưa, cắt bớt phần chất
đạm, tăng thêm phần rau ráng, thêm nước, thêm bột ngọt, mắm muối mặn nhiều lên
để ăn cho đỡ hao. Thế mà các bạn tôi
khen lấy khen để. Tôi hỉnh mũi nhận danh
hiệu đầu bếp lẫy lừng. Cơm tôi bảo đảm
ngon hơn cơm xì dầu với chuối.
Năm
tháng qua mau, tôi rời nhà trường ra làm việc ở công ty quốc doanh và bắt đầu
nếm mùi cơm tập thể bộ đội do một chị đầu bếp gọi là chị nuôi phụ trách. So với cơm chị nuôi thì cơm xã hội còn trên
một cấp. Tôi mãi mãi bị ám ảnh bởi những
mẩu cá kho vụn tanh tưởi, những miếng ruột heo hôi nồng xào với dưa leo, những
chén cơm gạo mọt độn nửa khoai, nửa bo bo.
Những vui buồn cơm chị nuôi, tôi có thể viết thành một cuốn truyện
nhỏ... Có thể nói là cơm chị nuôi đã cho tôi nhìn thấy cái thái cực tận cùng
của sự nấu ăn dở. Tôi trở nên suy dinh
dưỡng, ốm o, dơ bộ xương còm cách trí.
Tôi bắt đầu ước mơ những món ăn tầm thường mà tôi hằng chê bai ngày xưa.
Thế
rồi tôi lấy vợ. Cái giai đoạn cơm hàng
cháo chợ của đời tôi được tạm chấm dứt.
Tôi khỏi phải còn lo lắng miếng ăn miếng uống mỗi ngày. Vợ tôi nấu ăn rất ngon, ngay cả trong thời
buổi khó khăn thiếu thốn bấy giờ. Tôi
tìm lại được cái thú ăn và bắt đầu lên cân trở lại từ từ. Tôi là người có phước. Tôi nhớ mẹ thường nói ngày xưa tôi đẻ bọc
điều...
DND
01-2008
No comments:
Post a Comment